Khám phá Tràng giang để làm sáng tỏ quan điểm: ‘Bài thơ đã tiếp tục truyền thống thi cảm với một sự cách tân đích thực’
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của sự ám ảnh thời gian, thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian, nhà thơ của nỗi sầu nhân thế. Tài năng nghệ thuật độc đáo của hồn thơ ‘ảo não nhất’ trong phong trào thơ mới đã sáng tạo nhiều dòng thơ độc đáo với sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Có quan điểm cho rằng ‘Tràng giang đã tiếp nối mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thực’.
Mạch thi cảm truyền thống và sự cách tân đích thực
Mạch thi cảm truyền thống là nguồn cảm hứng của văn học truyền thống, thường chú trọng vào những nỗi buồn, chứa đựng tâm trạng của thi nhân. Đó là những nỗi buồn về nhân tình thế thái, sự chia lìa về không gian và thời gian địa lý được diễn tả qua cảnh vật, nhưng nhìn từ góc độ của nỗi niềm tâm sự như cách đại thi hào Nguyễn Du mô tả: ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Sự cách tân đích thực là sự đổi mới trong thơ ca, sáng tạo từ lời thơ, ý thơ với sự nhận thức của những hồn thơ mang hơi thở của văn học phương Tây hiện đại. Tràng giang là một bài thơ vừa mang nét buồn của thơ ca truyền thống vừa chứa đựng chất lãng mạn của thơ mới, với cái nhìn và tiếp cận đầy mới mẻ dưới bút tài hoa của Huy Cận.
Hình ảnh Tràng giang: Một sông Hồng gợi lên
Tràng giang là bài thơ tạo nên cảm giác sông Hồng gợi lên. Đó là niềm tâm trạng của một hồn thơ mới mỗi khi đối mặt với cảnh thiên nhiên sông nước bao la, êm đềm nơi bến Chèm trong một buổi chiều tà. Bài thơ được xuất bản trong tập ‘Lửa thiêng’ năm 1940 và là ‘bài thơ đạt đến trình độ cổ điển của một hồn thơ mới’.
Mạch thi cảm truyền thống và quê hương đất nước
Sự kế thừa mạch thi cảm truyền thống của Tràng giang hiện lên thông qua cảm hứng chủ đạo toát lên từ nỗi buồn, tâm trạng lạc lõng của một ‘tâm hồn cô đơn’ đối mặt với vũ trụ, cảm nhận sự bao la, vô tận, vô cùng của đất trời và nỗi cô đơn bé nhỏ của đời người. Điều này ngay từ tiêu đề của tác phẩm. Hai từ ‘tràng giang’ không chỉ gợi lên hình ảnh của một con sông với chiều dài và chiều rộng địa lý, mà còn là dòng sông cổ kính chứa đựng chiều sâu của lịch sử. Đó cũng là một không gian mênh mông, lớn lao, vô tận. Ở câu thơ đầu tiên ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài’, sự kết hợp giữa chất cổ điển và hiện đại hiển hiện ngay từ cách sử dụng từ và nghệ thuật diễn đạt. Đó là cảm giác bâng khuâng, buồn bã lan tỏa trong không gian rộng lớn, đa chiều của ‘trời rộng, sông dài’.
Cô đơn và lạc lõng trong cảnh thiên nhiên
Trong khổ thơ đầu tiên, Huy Cận mô phỏng hình ảnh ‘sóng’, ‘thuyền’, ‘củi’ để miêu tả nỗi buồn sầu trước cảnh sông nước lớn lao. Dòng thơ mở cửa sổ của tác phẩm tựa như một hình ảnh so sánh, trong đó sóng gợn được so sánh với nỗi buồn của trái tim con người, giống như câu đối quen thuộc trong ca dao ‘Sóng bao nhiêu gợn dạ em sầu bấy nhiêu’. Các từ ngữ ‘điệp điệp’, ‘song song’ làm nổi bật nỗi buồn triền miên không ngừng, lặp đi lặp lại vô tận, giống như những sóng nước của Tràng giang. Câu thơ ‘Thuyền về nước lại sầu trăm ngả’ được tác giả sử dụng nghệ thuật tiểu đối để diễn đạt sự chia li giữa thuyền và nước, phá vỡ thế sóng đôi, tạo ra một sự cân bằng mỏng manh ở câu thơ ‘Con thuyền xuôi mái nước song song’. Thông qua góc nhìn của Huy Cận, hình ảnh con thuyền nhỏ bé cô đơn đã biến mất, chỉ còn lại những sóng nước mênh mông. Đối mặt với thế giới thiên nhiên đó, nỗi buồn vô tận của nhà thơ trở nên càng sâu sắc, thấm đẫm trở thành nỗi ‘sầu trăm ngả’, ‘một cành củi khô lạc giữa dòng’.
Trong khổ thứ hai, cô đơn và lạc lõng trước cảnh thiên nhiên hiu quạnh, cô đơn tiếp tục hiện diện. Hình ảnh như ‘gió đìu hiu’, ‘vãn chợ chiều’ diễn đạt cảm giác thưa thớt, trống trải của thiên nhiên cảnh vật, gợi liên tưởng đến những hình ảnh tương đồng như ‘tiều vài chú’, ‘chợ mấy nhà’ trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Cách đặt vấn đề ‘Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều’ nhấn mạnh sự hoang vắng, trống rỗng khi âm thanh duy nhất của bài thơ là dấu vết vô cùng nhỏ bé, mong manh, mơ hồ, bị chìm lấp giữa một thế giới thiên nhiên ngự trị.
Cảm nhận cô đơn trong cảnh thiên nhiên
Thiên nhiên được cảm nhận ở tầm cao, tầm xa thông qua cái nhìn tổng quan toàn cảnh, giống như thiên nhiên trong thơ cổ với mối liên quan nội tại về ý nghĩa ở hai dòng thơ trên. Qua góc nhìn của Huy Cận, sông dường như dài hơn, trời rộng lớn hơn và bến cũng trở nên cô đơn hơn.
Tiến đến khổ thơ thứ ba, cảm giác cô đơn hoang hoải, bơ vơ, lạc loài được mô tả rõ ràng, sâu sắc trước bối cảnh hoang vắng kinh ngạc. Dòng thơ ‘Bèo dạt về đâu hàng nối hàng’ trong tầm quan sát của nhà thơ đưa ta trở lại với bức tranh của dòng sông mặt nước. Thơ vẫn diễn tả sự vận động của thiên nhiên, nhưng là sự vận động không hướng, không định, như hình ảnh của những chiếc thuyền trôi xuôi, ‘củi một cành khô lạc mấy dòng’. Một dòng sông đầy củi trôi, bèo dạt là một dòng sông hoang. Với dòng sông đó, Huy Cận cũng tinh tế bày tỏ nỗi buồn, nỗi sầu trước một thế giới không chút dấu vết của sự sống con người.
Cô đơn và lạc lõng trong cảnh thiên nhiên
Nếu ở khổ thơ đầu là ‘sóng gợn’ nghiêng về việc miêu tả cảnh đẹp, thì bây giờ ở khổ thơ cuối, tâm hồn là một phép nhân hoá giữa sóng sông và sóng tình cảm đang dâng trào. Câu thơ cuối cùng thể hiện ‘mối lòng với quê hương’ đang nặng nề. Hình ảnh con người và niềm nhớ nhà là quen thuộc trong thơ cổ. Lời thơ của Huy Cận vẫn giữ nguyên vị cổ điển, đậm chất nhớ nhà, tăng thêm sự lưu luyến bởi niềm nhớ.
‘Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai’
(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)
Cách tân và sáng tạo trong Tràng giang
Ngoài việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh và thủ pháp nghệ thuật của thơ cổ điển, Huy Cận tiếp tục truyền thống bằng cách sử dụng linh hoạt hình thức thất ngôn, với nhịp 2/2/3 hoặc 4/3, vần, cấu trúc thơ đăng đối, và việc mượn cảnh để thể hiện tâm trạng. Đặc biệt, ‘cái tôi lãng mạn’ của Huy Cận hiện diện trong phong cách thơ, mang nét ‘cách tân đích thực’. Đó là ‘nỗi buồn của cái tô cô đơn’ trong thơ mới thời mất nước, một tìm kiếm không ngừng cho ‘lối ra’. Huy Cận tiếp cận ‘Tràng giang’ với không gian truyền thống mênh mông, hùng vĩ, hoang vu, rợn ngợp nhưng mở rộng nó theo ba chiều típ tắp, vô tận (dài – rộng – cao) qua các hình ảnh như ‘nắng’, ‘trời’, ‘sông’, ‘bến’ trong hai câu thơ sau, mở rộng không gian Tràng giang đến vô tận và vô cùng:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Kết thúc
Với niềm khao khát ấm áp của tình người, tình đời, sự kết nối mạnh mẽ với quê hương và đất nước, hồn thơ Huy Cận xây dựng một Tràng giang ‘bài thơ đạt đến trình độ cổ điển của một hồn thơ mới’ và cũng là tứ thơ ‘Ca ngợi cảnh trí non sông và mở đường cho lòng yêu quê hương đất nước’. Tràng giang là một tác phẩm tiếp nối mạch thi cảm truyền thống một cách sáng tạo. Mặc dù giữ giá trị cổ điển đặc sắc, nhưng nó cũng với sự kết hợp linh hoạt, xen kẽ với những yếu tố hiện đại, tạo ra một bức tranh thơ độc đáo.
Để hiểu rõ hơn về bài thơ, bạn có thể đọc thêm: Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang, Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang, Bình giảng bài thơ Tràng giang, Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang.