Tổng hợp trên 30 bài thơ của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, cung cấp dàn ý chi tiết giúp học sinh làm văn hiệu quả hơn.
Danh sách 30 bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu bài thơ tương ứng
Đề bài: Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (khoảng 150 từ) giới thiệu về bài thơ đó.
Tuyển chọn 30 bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu mỗi bài thơ cụ thể
-
Tìm kiếm:
Bài thơ: Mộ xuân tức sự
Hưởng thụ thời gian bằng cách viết thư lưu bút,
Phòng vẻ bề ngoài, không tham gia vào những hoạt động không cần thiết.
Đỗ Vũ, với tâm hồn thanh cao, ngả mình trước tri thức và kinh nghiệm của người cao tuổi,
Hẳn là người có uy tín và sáng tạo, tạo ra sự vĩnh cửu như hoa nở mỗi mùa xuân.
(Phiên bản dịch bởi Khương Hữu Dụng:
Qua những ngày lười biếng ở trong phòng,
Không ai tiếp xúc với những thói quen bình thường,
Trong tiếng cuốc vang lên, mùa xuân đã chậm trễ
Sân đầy hoa xoan nở rộ dưới làn mưa nhỏ. -
Giới thiệu:
Bài thơ “Mộ xuân tức sự” là một tác phẩm độc đáo của Nguyễn Trãi, được sáng tác khi ông lánh đời tại Côn Sơn. Bài thơ tái hiện không khí cuối ngày xuân ngoài cửa sổ phòng văn của tác giả, thể hiện tinh thần hòa mình vào tự nhiên, lắng nghe tiếng cuốc kêu và ngắm nhìn cánh hoa xoan nở rộ dưới làn mưa rơi. Bài thơ không chỉ là sự thể hiện của tình yêu và sự kính trọng với thiên nhiên, mà còn chứa đựng tình yêu nước non của Nguyễn Trãi. Tiếng cuốc kêu không chỉ nhắc nhở về thời điểm cuối xuân sắp chuyển sang mùa hạ, mà còn làm nhấn mạnh tình hình đất nước đang gặp khó khăn. Mặc dù vậy, bài thơ không nặng nề, bi quan, mà vẫn phản ánh niềm tin và hy vọng của tác giả, qua hình ảnh hoa xoan còn nở rộ.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu bài thơ đó – mẫu 2
Thủ vĩ ngâm
Góc thành Nam, một gian lều,
Thiếu thức ăn, no nước uống.
Con đòi trốn, không ai quan tâm,
Bà ngựa gầy, không người chăn dắt.
Ao hẹp, không đủ nuôi cá,
Nhà chật, không dám chăn vằn.
Không phải là quan triều, không phải là người ẩn,
Góc thành Nam, một gian lều.
Bài thơ này có thể đã được sáng tác khi Nguyễn Trãi bị giam giữ tại Đông Quan theo tên của Nguyễn Khắc Kiệm hoặc trong thời kỳ bị Lê Thái Tổ tống cổ sau khi bị giam vì liên quan đến án Trần Nguyên Hãn. Mặc dù được tha và giữ chức vụ, nhưng ông không được phép tham gia hoạt động nào. Chúng tôi (nhóm Đào Duy Anh) cho rằng đó là trường hợp thứ hai, vì trong bài thơ có dấu hiệu của sự chán chường, không thể là giọng văn của một người thanh niên 30 tuổi đầy năng lượng (khi bị giam giữ tại Đông Quan) đang gặp khó khăn nhất thời. Nếu là khi bị giam giữ tại Đông Quan, không thể có dòng chữ “Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải”.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu bài thơ đó – mẫu 3
Thính Vũ
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật
Hòa chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh.
Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
Nghe Mưa
Trong bóng tối của căn phòng tĩnh lặng,
Cả đêm nghe tiếng mưa từ trên trời.
Âm thanh rơi rớt khiến chiếc gối nhàm chán,
Những giọt mưa thanh âm rơi rớt suốt đêm.
Tiếng chuông từ nhà thờ kêu vang qua cửa sổ,
Hòa với tiếng mưa, một giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm vẫn không ngủ được, bồn chồn không thôi,
Nghe tiếng mưa rơi đều đặn cho đến lúc trời sáng tỏ.
“Thính vũ” là một bài thơ chữ Hán đậm tình cảm, hé lộ lòng của tác giả. Bắt đầu với cảnh trời mưa, trong căn phòng u tối tịch mịch, thi nhân là khách trọ thức đêm một mình, cảm nhận âm thanh mưa rơi như là trạng thái tâm trạng bồn chồn, như chưa thực hiện một ước mơ to lớn, một trách nhiệm nam nhi nợ nước thù nhà. Tiếng trúc kêu, tiếng chuông chùa vang lên âm điệu, làm cho nỗi buồn càng chất ngất thức thâu đêm. Ngoài kia, mưa rỉ rả thay đổi, nhưng ngâm thơ vẫn không thể ngủ đến sớm mai. Dưới đây là bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Trãi.
Tìm kiếm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu về nó – mẫu số 4
QUAN HẢI
Thung mộc trùng trùng hải lãng trước mắt,
Trầm giang thiết toả vẻ vĩnh hằng tự nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân tại chính thuỷ,
Thị hiểm nan đối mặt với mệnh số do trời ban.
Hoạ phúc trọn vẹn chỉ trong một ngày,
Anh hùng điều hành ký ức qua hàng năm.
Kiến thức sâu rộng không thể đo lường bằng vàng,
Khước tại Thương Lang, đón nhận sự yên bình.
Dịch nghĩa
Dải đất ven biển đầy cọc gỗ, sóng biển dồn dập
Sắt vẫn cứ dưới nước, làm nhiệm vụ phong toả
Thuyền lật úp mới hiểu, dân không khác gì nước
Mệnh số trời cao hơn địa vị vàng son
Phúc họa phần nào đều do duyên số, không phải chỉ trong một ngày một tháng
Chấn anh hùng để lại làm sầu vạn dặm
Từ xưa đến nay, dấu vết trời đất không lường trước.
Quan Hải là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi. Bài thơ này được sáng tác sau chiến thắng trước quân Minh. Nó thể hiện lòng suy tư về sự hưng vong của triều đại Hồ ngắn ngủi, cũng như nỗi đau tiếc nuối của anh hùng trải qua những thất bại. Đây thực sự là một tác phẩm sâu sắc về tâm hồn dân tộc, minh chứng cho sức mạnh của đoàn kết dân tộc. Bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc và tầm nhìn sâu xa.
Tìm kiếm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu về nó – mẫu 5
Ba tiêu (cây chuối)
Tựa bóng xuân, mới nở rộn màu
Bướm bay lượn, gió thoảng mặt đêm lạnh
Một bức phong thư vẫn còn kín
Thổi nhẹ gió đến, mở ra xem điều bên trong.
Cây chuối, dù bình dị, đã được Nguyễn Trãi thổi hồn vào đó để thể hiện một tâm trạng sâu lắng, một khao khát mãnh liệt. Điều này hoàn toàn bình thường, vì Nguyễn Trãi không chỉ là một vị tướng mà còn là một con người có những cảm xúc sâu sắc, không tránh khỏi sự e ngại và ngần ngại khi nói về tình yêu. Cây chuối là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt trong sự giản dị và kín đáo. Thơ của Nguyễn Trãi thể hiện sự sống động và triết lý về tình yêu, về cuộc sống và về con người.
Tìm kiếm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu về nó – mẫu 6
Bảo kính cảnh giới – số 43 là một bài thơ mô tả cảnh của một ngày hè, thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và yêu đất nước của Nguyễn Trãi. Câu chốt lục ngôn cuối cùng rất ngắn gọn nhưng lại truyền đạt được tất cả những cảm xúc trong bài thơ.
Dạo bước trên con đường thời trường,
Cành cây rậm rạp bóng mát dày đặc.
Trên hiên nhà, thạch lựu vẫn còn rơi giọt nước đỏ,
Hương hoa hồng đã lan tỏa khắp nơi.
Ồn ào của chợ cá đồng thời với làng ngư nhộn nhịp,
Tiếng ve vang vọng từ lầu tịch dương.
Người ta nói rằng, Ngu đã ngắm nhìn vài đàn một bài.
Mọi người trong xã đều muốn giàu có từ mọi hướng.
Tìm kiếm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu về nó – mẫu 7
Tán bóng xuân, sự thăng hoa lại tăng thêm,
Buồng trong tim rộn ràng, màu sắc len lỏi trong đêm tối.
Một lá thư tình còn nguyên bí mật,
Gió từ nơi nào, cố gắng mở ra và chiêm ngưỡng.
(Ba tiêu – Cây chuối của Nguyễn Trãi)
Bài thơ Ba tiêu – Cây chuối của danh nhân Nguyễn Trãi là một tác phẩm viết bằng chữ Nôm, dù ngắn gọn nhưng vẫn mang trong mình sự độc đáo. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt, là một phần trong tập thơ Quốc âm thi tập nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Với bốn câu thơ đơn giản nhưng sâu sắc, Nguyễn Trãi đã tạo ra một cái nhìn mới về cây chuối – một loài cây phổ biến và quen thuộc. Trong mùa xuân ấm áp và dễ chịu, khi hoa nở rộ và cây chuối thêm tươi tốt, những buồng chuối xanh mơn mởn, đẹp đẽ cả ngày lẫn đêm. Những đọt chuối non như những lá thư tình e ấp không muốn được mở ra. Gió từ nơi nào, luôn quấn quýt và thúc đẩy chúng ta mở ra những lá thư ấy. Bài thơ này không chỉ là một bức tranh về cây chuối mà còn là một bức thư đầy cảm xúc mà Nguyễn Trãi gửi đến độc giả.
Tìm kiếm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu về nó – mẫu 8
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và giới thiệu bài thơ đó – mẫu 9
Thường thường dựa vào sự tốt lành của chính mình,
May mắn và rủi ro thường đến một cách ngẫu nhiên.
Lời nói nhọn hơn cả lưỡi gươm,
Trái tim con người vượt qua mọi biến cố.
Không ai có thể ngăn cản sự phát triển của một ý tưởng,
Nếu gặp khó khăn, hãy bỏ qua và tiếp tục bước đi.
Trong thế giới yên bình liệu có sự tồn tại,
Hãy tránh xa cuộc đua tranh không đáng có.
Bài thơ Bảo kính cảnh giới mẫu 9 là một tác phẩm viết theo thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, có cấu trúc Đề – Thực – Luận – Kết. Nó thể hiện triết lý sống bình an, không bon chen của Nguyễn Trãi và nỗi lo sợ của ông trước tình hình xã hội hiện nay.